Please login or register.

Login with username, password and session length

Author Topic: Hóa học vui, thực nghiệm và ứng dụng cuộc sống  (Read 224431 times)

08 Tháng Tư, 2012, 03:00:16 PM
Reply #120
  • Thành viên box Hóa
  • Cựu thành viên BĐH
  • ***
  • Posts: 1418
  • Điểm bài viết: 208
  • Here is a man
Không biết bạn đã làm thật chưa hay chỉ viết lại từ trong sách hoặc đâu đó trên mạng. Hồi còn học phổ thông mình từng làm cả 2 thí nghiệm này nhưng đều không thành công. Phản ứng có xảy ra nhưng mức độ không được như lí thuyết.

Chinh phục bạn gái.
Cầm dao cứa vào tay rồi lột da tay từ từ, “máu” sẽ ứa ra và mặt nhăn lại đau đớn.(cho bạn gái nó đau lòng, còn mình thì vui mừng trong lòng vì đã lừa được bạn ý )

Nói vui một chút. Cái này mình nghĩ bạn có cắt tay thật thì bạn gái cũng không đổ đâu, lại còn nghĩ mình điên ấy chứ. Lừa người ta, khiến người ta đau lòng mà lại đổ được thì cũng lạ :)).
« Last Edit: 08 Tháng Tư, 2012, 03:03:35 PM by Oxy »

10 Tháng Tư, 2012, 03:02:05 AM
Reply #121
  • Thành viên mới
  • *
  • Posts: 3
  • Điểm bài viết: 0
    • em iu hoa hoc
1.2. Hóa học trong thời kỳ trung cổ

     Vào thế kỷ thứ IV – V kiến thức hóa học được đưa vào Tiểu Á. Tại Syri xuất hiện những trường triết học nhằm phổ biến ý tưởng triết học tự nhiên Hy Lạp và hiểu biết hóa học trong thế giới Arập. Lúc này từ “chemist” – “nhà hóa học” được đưa thêm tiền tố “al” để trờ thành “alchemist” – “nhà giả kim thuật”.

     Ý tưởng “giả kim”, xuất hiện vào thế kỷ thứ III – IV tại Ai Cập, trở thành đề tài chính đối với các nhà giả kim thuật. Giả kim thuật là một xu hướng triết học và văn hóa, trong đó sự thần bí và ma thuật với thủ công và nghệ thuật được hòa trộn với nhau: hầu như suốt một nghìn năm trăm năm các nhà giả kim thuật tập trung vào việc tìm kiếm phương pháp biến đổi kim loại thường  – sắt, chì đồng – thành kim loại đắt tiền – vàng, bạc – nhờ một chất đặc biệt – “hòn đá triết học” kỳ diệu.


1.2.1. Giả kim thuật Hy Lạp và Ai Cập

    Ý tưởng biến một nguyên tố thành nguyên tố khác dựa trên trên luận điểm của triết học Aristot. Nhu cầu lớn về vàng đã tạo ra sự quan tâm lớn với các nhà thực nghiệm tự nhiên trung cổ. Vì chủ nghĩa thần bí trở thành hệ tư tưởng của các nhà giả kim, nên họ nghiên cứu việc luyện kim qua lăng kính chiêm tinh và ma thuật. Bởi vậy trong những thế kỷ đầu tiên công nguyên, các kim loại điều chế được đều gọi tên theo các thiên thể. Trong thời kỳ đó các bản thảo giả kim thuật còn lưu lại tới nay đều sử dụng ngôn ngữ quy ước vay mượn từ kiến thức thần bí Hy Lạp và Phương Đông. Trong các tài liệu đó có mô tả các phương pháp điều chế kim loại quý bằng cách biến đổi kim loại thường.

     Do bốn kim loại Aristot không đủ để lý giải việc luyện kim về mặt hóa học, các nhà giả kim Hy Lạp và Ai Cập bắt đầu xem xét thủy ngân (biểu tượng của tính kim loại) và lưu huỳnh (biểu tượng của tính cháy) như các thành phần chính (nguyên tố) của các kim loại,. Nhờ “mạ vàng” và “mạ bạc” mà từ các kim loại thường có thể tiến tới điều chế các chất sơn nhuộm có màu vàng hoặc trắng giống như kim loại đắt tiền.

     Các nhà giả kim cho rằng toàn bộ giới tự nhiên đều có sức sống. Bởi vậy họ tin rằng, kim loại lớn lên và chín trong lòng đất. Vàng được coi là kim loại chín hoàn toàn, còn các kim loại thường thì chưa chín. Các nhà giả kim không muốn chờ cho tới khi các kim loại đó chín dưới tác dụng của lực tự nhiên, họ cố gắng làm tăng tốc quá trình này nhờ nghệ thuật hóa học. Khi đó lòng tham và khao khát sự giàu có trở thành thói xấu ngăn cản các nhà giả kim nhận thức được giới tự nhiên. Các nhà giả kim cũng thường sử dụng những tên gọi nổi tiếng trong lĩnh vực hoạt động của mình như, nữ thần Isys của người Ai Cập cổ, thần Hephaestus của người Hy Lạp cổ, thậm chí người sáng lập nghệ thuật giả kim huyền thoại Hermes.

     Lúc đầu, nhà thờ thiên chúa chống lại giả kim thuật khi xem nó như một thứ tà ma. Tuy nhiên sau đó họ xem xét lại và có thái độ rộng lượng hơn với các nhà giả kim. Một số điểm trong Kinh thánh cũng nhắc đến việc một số tác giả Kinh thánh cũng từng là nhà giả kim như các tác giả kinh Phúc âm Joan.

     Việc theo đuổi “hòn đá triết học” một cách vô ích để điều chế kim loại quý lại giúp họ hiểu sâu và rộng hơn về các quá trình hóa học sử dụng trong thủ công. Các nhà giả kim đã dùng hỗn hống để làm sạch vàng, sản xuất gốm và thủy tinh, phát hiện ra một số hợp chất hóa học mới, ví dụ amoni clorua. Họ cũng phát minh ra hàng loạt dụng cụ hóa học, trong đó có thiết bị để trưng cất.

     Sau khi chinh phục Ai Cập trong thế kỷ VII, người Ả Rập đã không chỉ tiếp nhận các nền văn hóa Hy Lạp-phương Đông, có nguồn gốc từ trường đại học cổ đại Alexandria, mà còn tự nâng cao tầm hiểu biết theo sự thúc đẩy của các nhu cầu thực tế. Thời hoàng kim của kiến thức hóa học được đánh dấu ở cuối thế kỷ VIII, khi các thầy thuốc Ả Rập bắt đầu sử dụng các dược phẩm bào chế đặc biệt. Trong thời gian này ở Baghdad đã mở hiệu thuốc đầu tiên trên thế giới.

     Nhà khoa học nổi tiếng nhất của thời điểm đó là nhà y học và giả kim thuật Ả Rập Jabir ibn Haiyang (Gayan), được biết đến dưới tên latinh Geber (721-815). Ông được xem là tác giả của hàng trăm công trình khoa học, trong đó mô tả các quá trình hóa học khác nhau và các thí nghiệm chuyển hóa các chất. Trong các bản văn của Heber có thể tìm thấy bài lược thuật lý thuyết kim loại, phỏng theo từ các nhà giả kim thuật Hy lạp-Ai Cập. Dưới sự chuyển hóa của các kim loại, ông đã hiểu được sự tinh chế của chúng: một kim loại tinh khiết có chứa nhiều thủy ngân hơn, và ít tinh khiết – nhiều lưu huỳnh. Ông tin rằng các kim loại được hình thành trong lòng đất từ lưu huỳnh và thủy ngân dưới tác động của các hành tinh. Heber đã lập ra một trường học khoa học ở Baghdad. Ông được coi là người sáng lập phương pháp hóa học thực nghiệm (nghiên cứu và áp dụng các phương pháp chưng cất, kết tinh, vv).

     Ngược lại với Heber, Avicenna, nhà khoa học tự nhiên, bác sĩ và nhà triết học Trung Á đã bác bỏ khả năng chuyển đổi lẫn nhau của các kim loại. Đồng thời, ông tin rằng các kim loại quý có thể phát triển trong lòng của trái đất dưới ảnh hưởng của mặt trăng và mặt trời. Avicenna không đề xuất lý thuyết hóa học mới nào, cho dù ông là một trong những người đầu tiên đặt câu hỏi cho mục tiêu của các nhà giả kim thuật.

     Nhà giả kim thuật Ả Rập đã bảo vệ thành công những kiến thức, mà họ được truyền lại từ Ai Cập và Hy Lạp, sau đó thâm nhập vào châu Âu. Đồng thời họ đã mở ra những cách thức mới trong việc nghiên cứu tự nhiên. Thành tựu quan trọng nhất của các nhà giả kim thuật Ả Rập được xem là việc tạo ra khoa học về bào chế và sử dụng thuốc. Các nhà giả kim thuật đưa một số hợp chất của thủy ngân, kẽm, đồng, kiềm và phèn, cùng với các chất chiết xuất từ thực vật, vào thực hành y học. Sử dụng phương pháp chưng cất, họ nhận được các loại tinh dầu và nước cất. Nhà giả kim thuật Ả Rập, sử dụng một loại thuốc gọi là "vàng có thể uống được", có các đặc tính chữa bệnh xuất sắc (thuốc chữa bách bệnh hay tiên đan trường thọ).

     Abu Ali al-Husayn ibn Sina (980-1037), tên Latinh - Avicenna, một bác sĩ nổi tiếng, nhà giả kim thuật và triết học ( dân tộc Tajik, sinh ra trên lãnh thổ Uzbekistan hiện nay). Đã điều chế axit chlohydric, sulfuric và nitric, kali và natri hydroxit. Các bài luận triết học, khoa học tự nhiên và y học của ông đã được biết đến ở các quốc gia phương Đông và phương Tây.



1.2.3. Giả kim thuật châu Âu


     Từ thế kỷ XII giả kim thuật Ả rập đã bắt đầu mất đi định hướng thực tế, dẫn đến việc mất đi vị trí dẫn đầu. Tới thời gian này, thuật giả kim đã thâm nhập vào châu Âu thông qua Tây Ban Nha và Sicily.

      Sự cạnh tranh của rất nhiều nhà cầm quyền châu Âu đã ủng hộ sự tìm hiểu chuyên sâu hơn "đá triết gia"*. Trên cơ sở đó, cùng với các nhà giả kim thuật, những người phục vụ trung thành cho khoa học và nghề nghiệp của mình, đã xuất hiện những kẻ bịp bợm giả hiệu cố gắng sử dụng sự bí mật và thần bí của thuật giả kim để kiếm chác, mà nó sinh ra thái độ tiêu cực đối với thuật giả kim của các thế hệ học giả kế tiếp. Tuy nhiên, nhiều nhà giả kim thuật châu Âu đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lịch sử hóa học, chẳng hạn như Roger Bacon (1214-1294) và Raymond Lully (khoảng 1235-1315).

     Đá triết gia là một chất huyền thoại giả kim thuật được cho là có khả năng biến kim loại cơ bản (ví dụ chì) thành vàng hay bạc. Nó đôi khi cũng được cho là một tiên dược của cuộc sống, có khả năng làm trẻ lại và đạt được bất tử. Trong nhiều thế kỷ, nó là mục tiêu được tìm kiếm nhiều nhất của giả kim thuật phương Tây.

    Triết gia, tu sĩ dòng Phanxicô người Anh Bacon đã tiến hành không ít thí nghiệm để tìm cách chuyển hóa chất này sang chất khác. Do từ chối cung cấp những bí mật điều chế vàng, mà ông thực sự không biết, ông đã bị tù 15 năm. Bacon đã nghiên cứu các tính chất của amoni nitrat và các chất khác và đã tìm ra cách chế tạo thuốc súng đen.

     Nhà thơ và nhà thần học Tây Ban Nha, Lully được xem là một trong những nhà giả kim thuật châu Âu nổi tiếng nhất. Trong tác phẩm "Về việc chuyển hóa linh hồn của kim loại", ông đã mô tả những công thức chế tạo "đá triết gia".

      Sau những cố gắng tìm "đá triết gia" không thành công, các nhà giả kim thuật phương Tây đã xem xét lại lý thuyết các kim loại, thêm vào thủy ngân và lưu huỳnh một thành phần thứ ba - muối, như là biểu tượng của độ cứng. Với việc phát hiện và truyền bá các chất mới, bao gồm nhiều axit, một cách tiếp cận mới để điều chế các kim loại quý đã bắt đầu có thể thực hiện được. Nó cho thấy rằng vàng và bạc khai thác từ quặng là dễ dàng hơn so với lãng phí sức lực mà không mang lại kết quả chuyển hóa giả kim thuật*. Ý tưởng tác động lên quặng bằng các chất phản ứng khác nhau, với mục đích tách riêng kim loại ra dường như rất thuận lợi. Tuy nhiên, mặc dù các nhà giả kim thuật đã theo đuổi mục tiêu xa thực tế, thì nhờ vào công việc của họ đã thu được nhiều tài liệu về các quá trình hóa học và công nghệ, mà sau này đã được phát triển và hoàn thiện,.

 *  Chuyển hóa giả kim thuật là sự chuyển hóa của một kim loại thành những kim loại khác, thường có nghĩa là biến kim loại cơ bản thành kim loại quý.
Trong thời kỳ giả kim thuật nỗ lực nghiên cứu bản chất của các sản phẩm lên men cũng được thực hiện. Trong đó có việc nghiên cứu các phương pháp tách rượu nguyên chất và axit axetic, cũng như nghiên cứu một số tính chất của các chất này. Những thành quả của các nhà giả kim thuật trong lĩnh vực thí nghiệm hóa học là rất lớn; các thiết bị mà họ tạo ra, các chất và các phản ứng được khám phá đã được ứng dụng thành công trong sản xuất thủ công. Các phát triển giả kim thuật đã là nhu cầu đòi hỏi thậm chí bởi khoa học hiện đại.

      Một tư tưởng rất quan trọng, có thể là nổi trội trong số các tác phẩm của các nhà giả kim thuật vĩ đại, và chúng ta không thể quên nó, ở chỗ là các chuyển hoá của các kim loại phải được thực hiện hài hòa với thiên nhiên, và không vi phạm các quy luật của nó, và rằng thiên nhiên bị phá hủy sẽ mang đến sự hủy diệt của loài người.



1.2.4. Hóa học thực nghiệm


      Các nhu cầu của ngành luyện kim và y học đã dẫn đến sự phát triển của giả kim thuật thực hành ở Ai Cập. Trong các thế kỷ XVI-XVII xuất hiện những mô tả dễ hiểu, có hệ thống cho khái niệm của một số quá trình hóa học mà không cần sử dụng ngôn ngữ bí ẩn "dành riêng". Các tác giả của những tác phẩm này, chuyên môn trong các lĩnh vực am hiểu thực tế riêng (luyện kim, nhuộm, gốm sứ, thủy tinh), độc lập với những mục tiêu chính của nghiên cứu giả kim thuật. Phát triển hóa thực nghiệm cần thiết cho việc tiến hành nghiên cứu, không chỉ sản phẩm hoàn chỉnh mà còn các nguyên liệu ban đầu, mà nó xác định sẵn sự xuất hiện của phương pháp phân tích hóa học.

      Nhà khoa học Đức Georg Agricola - tác giả của tác phẩm "Về khai khoáng và Luyện kim", dựa trên ý tưởng của mình về các quan niệm của thuật giả kim. Đồng thời, ông là một trong những nhà phê bình đầu tiên chỉ trích cả mục tiêu của các nhà giả kim thuật và cách thao tác hóa học của họ. Agricola được coi là người sáng lập của "nghệ thuật thí nghiệm" - phương pháp luận định lượng hàm lượng kim loại trong quặng và vật liệu.

      Vẫn còn một nhà cải cách thuật giả kim là một học giả vĩ đại người Đức Theophrastus Paracelsus - người sáng lập của hóa dược giả kim thuật, mà nó xuất phát từ nỗ lực kết hợp thuốc với hóa học. Ý tưởng của Paracelsus hình thành cơ sở của hóa dược. Ông xem các quá trình xảy ra trong cơ thể như các hiện tượng hóa học, còn bệnh tật như là một kết quả của sự vi phạm cân bằng hóa học. Vì lý do này, các nhà hóa dược giả kim thuật thực hiện việc tìm kiếm các hóa chất cần thiết để điều trị cho bệnh nhân. Paracelsus, phỏng theo ý tưởng của các nhà giả kim thuật rằng vật chất cấu tạo từ ba phần - thủy ngân, lưu huỳnh và muối, mà chúng tương ứng với các thuộc tính dễ bay hơi, dễ cháy, và cứng rắn. Tuy nhiên, ông đã nhìn thấy mục đích chính của thuật giả kim trong việc bào chế các loại thuốc, chứ không phải là tìm "đá triết gia."

       Sử dụng những thành tựu của hóa học kỹ thuật, các nhà hóa dược giả kim thuật đã thu được và nghiên cứu các chất vô cơ khác nhau, bao gồm cả chế phẩm của antimon, asen, thủy ngân và bạc. Họ đã nghiên cứu và mô tả chi tiết một số các hợp chất hữu cơ, trong đó có axit acetic, succinic, và benzoic.

       Bằng cách tích lũy các thông tin về các biến đổi hóa học thực tế của các chất trong cộng đồng khoa học đã làm gia tăng thái độ tiêu cực đối với các mánh khóe của nhà giả kim thuật. Tuy nhiên, giả kim thuật đã không mất ngay vị trí của nó. Nhiều nhà khoa học nổi tiếng, bao gồm cả Isaac Newton, không thoát khỏi niềm đam mê với thuật giả kim, đã dành không ít thời gian tìm kiếm "đá triết gia".

      Các dân tộc sống trong lãnh thổ hiện nay của đất nước chúng tôi, trong từ nhiều thế kỷ đã tích lũy các kiến thức hóa học liên quan tới thực hành. Trong tài liệu tham khảo y học Nga cổ đại (dược thảo), có thể tìm thấy không chỉ đơn thuốc chế tạo nước thuốc (sắc) và thuốc mỡ sử dụng các loại thực vật khác nhau, mà còn mô tả một số thao tác hóa học (chưng cất, lọc, kết tinh). Trong số các đơn thuốc, có thể thấy được những mô tả phương pháp điều chế axit nitric, luyện chế xà phòng, sản xuất sơn. Trong cuối thế kỷ XVI - đầu thế kỷ XVII tại Nga sản xuất kali nitrat, sản xuất thuốc súng, nấu luyện gang trong lò cao nhỏ - lò thủ công, cũng đã dần ổn định sản xuất kim loại màu, đặc biệt là đồng, bạc, thiếc và chì.

       Agricola (tên latinh Georg Bauer) (1494 hoặc 1490-1665) - bác sĩ, nhà luyện kim và nhà khoáng vật học người Đức. Sau khi dời bỏ nghề y, tham gia vào công việc khai thác mỏ. Tác phẩm chính của ông "Về khai khoáng và Luyện kim" (12 cuốn sách) hơn hai thế kỷ là hướng dẫn chính về phương pháp khai thác quặng, luyện kim và nghệ thuật thí nghiệm.

      Theophrastus Paracelsus, tên thật - Philis Aureol Theophrast Bombast von Hohenheim (1493-1541) - bác sĩ và nhà tự nhiên người Đức. Một trong những nhà sáng lập hóa dược giả kim thuật. Đưa vào thực tế các loại thuốc hóa học mới (chẳng hạn như dược phẩm làm se da), sử dụng nước khoáng cho mục đích y học.

       Isaac Newton (1643-1727) - nhà toán học người Anh, kỹ sư, nhà thiên văn học và vật lý học, người sáng lập của cơ học cổ điển. Người ủng hộ thuyết nguyên tử trong cấu trúc vật chất. Phát triển lý thuyết hạt của ánh sáng, nhưng ở các giai đoạn khác nhau xem xét khả năng tồn tại và tính chất sóng của ánh sáng, cố gắng để tạo ra lý thuyết sóng hạt của ánh sáng.


10 Tháng Tư, 2012, 11:12:16 AM
Reply #122
  • Thành viên mới
  • *
  • Posts: 82
  • Điểm bài viết: 1
    • Trần Quốc Huy
Có một điều khá là thú vị : khi ta dùng một con dao bình thường(dao Thái Lan chẳng hạn) để cắt gọt các loại táo, lê thì sau một thời gian phần cắt của táo, lê thường bị thâm đen (hơi nâu). Vậy nếu ta dùng con dao bằng inox để cắt gọt táo lê thì có hiện tượng gì xảy ra không? Giải thích. 

08 Tháng Bảy, 2014, 09:53:04 AM
Reply #123
  • Thành viên mới
  • *
  • Posts: 16
  • Điểm bài viết: 0
    • Tô Ngọc Hiếu
Ngày xưa, một số nàng tiên từ trên trời xuống trần chơi. Họ đến bên một hồ nước trong veo. Đoạn họ đang chơi trong hồ, bỗng nhiên vị thủy thần dưới đáy hồ ra lệnh giết hết tất cả các nàng tiên, xác họ nổi trên mặt hồ. Tin dữ báo về cho Ngọc Hoàng Đại đế làm ngài vô cùng tức giận. Theo lệnh ngài, một số nàng tiên đã xuống trần trừng phạt vị thủy thần kia. Khi họ xuống hồ, những xác chết trên mặt hồ đã biến mất tự bao giờ. Hãy viết phương trình hóa học mô tả quá trình trên

08 Tháng Bảy, 2014, 09:53:47 AM
Reply #124
  • Thành viên mới
  • *
  • Posts: 16
  • Điểm bài viết: 0
    • Tô Ngọc Hiếu
Có một người da đen đi thuyền trên một dòng sông. nước sông trong veo. anh ta đang đi đến giữa dòng thì bỗng nhiên khát nước, đoạn anh ta cúi xuống sông uống nước. Không may anh ta bị ngã xuống dưới sông. Kì lạ thay, sau đó nước sông đổi màu thành màu xanh lá cây. Hãy viết phương trình hóa học mô tả quá trình trên